Trong quá trình mang thai, cơ thể người phụ nữ thay đổi nhiều về tâm lý, giải phẫu, sinh lý, huyết học, tuần hoàn…Một hệ thống tim mạch khỏe mạnh là rất cần thiết để thích ứng được những thay đổi đó. Nhưng với những sản phụ có bệnh tim mạch thì thai nghén trở thành gánh nặng và làm cho các bệnh lý tim mạch trở nên nặng hơn, dễ xảy ra tai biến và biến chứng cho mẹ và thai nhi. Vì thế, việc theo dõi bệnh lý tim mạch khi đang mang thai rất quan trọng.
Tại Việt Nam, bệnh tim hay gặp ở phụ nữ có thai vẫn liên quan nhiều đến bệnh van tim do di chứng thấp tim, một số khác do các bệnh tim bẩm sinh chưa được phát hiện và điều trị. Những sản phụ này có thể sẽ gặp nhiều nguy cơ trong quá trình thai nghén.
Cấp cứu khi sinh vì bệnh tim
Sản phụ N.T.B.N (29 tuổi, Sóc Trăng) được chuyển đến Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ trong tình trạng hồi hộp, mệt, nhịp tim 140 lần/phút và được chẩn đoán: thông liên nhĩ, tăng áp phổi nặng/thai phụ 39 tuần.
Sản phụ này có tiền sử bệnh tim là thông liên nhĩ và hen phế quản khoảng hai năm trước nhưng không điều trị.
Trong thời gian mang thai, chị N có những cơn mệt, hồi hộp và tự hết, song vẫn không đi khám. Trước một ngày dự sinh, chị N bị mệt nhiều nên đến 1 bệnh viện chuyên khoa Sản- Nhi để được nhập viện.
Bệnh nhân được chỉ định phẫu thuật cấp cứu với tiên lượng nặng, nguy cơ phẫu thuật cao. Trong 15 phút, các bác sĩ đã đón 1 bé gái nặng 3kg, khóc tốt và được chuyển ngay đến phòng dưỡng nhi chăm sóc.
Các bác sĩ cho biết nguy cơ biến chứng cho mẹ có bệnh lý tim bẩm sinh khoảng 12%, như: rối loạn nhịp tim, suy tim, tử vong; tỉ lệ sẩy thai, thai lưu, thai chậm phát triển, tử vong con sau sinh cộng dồn khoảng 4 %. Nguy cơ càng cao ở các thai phụ có tổn thương bẩm sinh của tim phức tạp, chức năng thất trái giảm nặng.
Một số bệnh lý tim mạch hay gặp khi mang thai
Bệnh tim thiếu máu cục bộ
phụ nữ có thai hay người không có thai đều gặp các yếu tố nguy cơ gây nhồi máu cơ tim như nhau. Nguy cơ nhồi máu sẽ tăng lên ở trường hợp đa thai, người hút thuốc lá, bệnh nhân đái tháo đường, béo phì, tăng huyết áp và mỡ máu cao.
Nhồi máu cơ tim hay gặp nhất trong 3 tháng cuối của quá trình mang thai và tử vong mẹ khoảng 20%. Về điều trị cũng tương tự với người không có thai.
Rối loạn nhịp tim và thai nghén
Ngoại tâm thu nhĩ và thất là bệnh phổ biến trong thời kỳ mang thai. Bà bầu có cảm giác tim đập mạnh trong lồng ngực và thấy có khoảng hẫng nhịp sau nhịp ngoại tâm thu. Rối loạn nhịp nhanh cũng phổ biến trong thai kỳ.
Khoảng 20% trường hợp phụ nữ có cơn nhịp nhanh trên thất trước khi mang thai sẽ tái phát trong thời kỳ có thai. Vì thế, các sản phụ cần được theo dõi về tim mạch trong suốt quá trình mang thai.
Hẹp van hai lá
Bệnh hẹp van hai lá khởi đầu thường không có triệu chứng, nhưng khi mang thai có thể diễn biến xấu đi do nhịp tim nhanh, rối loạn nhịp tim hoặc do nhu cầu cung cấp máu tăng dẫn đến các biến chứng nặng như phù phổi cấp, nếu không được điều trị dễ dẫn đến tử vong.
Vì thế, sản phụ có bệnh hẹp van hai lá nặng cần được tư vấn bởi bác sĩ chuyên khoa tim mạch và thường điều trị nong van hoặc phẫu thuật sửa/thay van hai lá trước khi mang thai.
Hở van hai lá
Sản phụ nếu dung nạp tốt nên đôi khi quá trình mang thai vẫn diễn ra bình thường (thường gặp ở sản phụ chức năng tim còn bù trừ tốt).
Tuy nhiên, ở những sản phụ có hở van hai lá nặng kèm theo chức năng tim đã suy giảm thì quá trình thai nghén dễ có các biến chứng khi sinh nở.
Hẹp van động mạch chủ
Hẹp van động mạch chủ thường là bệnh bẩm sinh hoặc do di chứng của thấp tim. Nếu hẹp van động mạch chủ nặng hoặc đã có triệu chứng như khó thở, đau ngực thì cần khuyên người bệnh không nên có thai cho tới khi được phẫu thuật.
Hở van động mạch chủ
Sản phụ thường dung nạp tốt khi chức năng tim còn trong giới hạn bình thường. Cần lưu ý một số thuốc trong quá trình thai nghén như thuốc “ức chế men chuyển” (loại thuốc hay dùng điều trị trong hở van động mạch chủ) có nguy cơ dị tật với thai nhi nên cần thay thế bằng nhóm thuốc khác.
Van cơ học và thai nghén
Những sản phụ có mang van tim nhân tạo (được thay van nhân tạo cơ học trước khi mang thai) cần dùng thuốc chống đông suốt đời và phải tiếp tục trong suốt thời kỳ mang thai. Tuy nhiên, các thuốc chống đông như wafarin (Sintrom) và các dẫn xuất khác có thể dẫn đến bệnh lý thai nhi trong thời gian từ tuần thứ 6 đến tuần thứ 12, đồng thời làm tăng nguy cơ sẩy thai, thai lưu và xuất huyết nội sọ thai. Vì thế, với người bệnh mang van tim cơ học, việc mang thai sẽ dẫn đến nguy cơ lớn cho cả mẹ và thai nhi. Nếu vẫn tiếp tục mang thai thì trước khi sinh cần phải dừng wafarin và thay bằng thuốc chống đông khác là heparin trong 10 ngày trước khi sinh. Trong khi sinh thì dừng dùng heparin và dùng lại wafarin từ ngày thứ 2 hoặc thứ 3 sau khi sinh.
Các bệnh tim ít gặp khác trong quá trình thai nghén như: Tăng áp lực động mạch phổi, bệnh cơ tim phì đại tắc nghẽn, bệnh cơ tim chu sản (một loại bệnh lý đặc biệt có liên quan quá trình thai sản)… Đối với những sản phụ nói chung, đặc biệt, các sản phụ có bệnh tim nói riêng cần được theo dõi và quản lý thai nghén định kỳ theo hướng dẫn của nhân viên y tế. Các sản phụ có bệnh lý tim mạch kèm theo, cần được thăm khám và kết hợp điều trị của bác sĩ chuyên khoa tim mạch nhằm giảm các nguy cơ biến chứng và tai biến trong thai kỳ, đảm bảo sức khỏe cho cả mẹ và em bé.
Theo bác sĩ Ngô Tuấn Anh – Bệnh viện Trung Ương Quân Đội 108