Thuốc dùng cho phụ nữ mang thai và nuôi con bú

Made in Australia

Góc chuyên gia

02/02/2016

Bài tiết I-ốt qua nước tiểu ít trong thời kỳ đầu mang thai có liên quan tới các thay đổi trong hoạt động chức năng ở trẻ em
Tạp chí Dinh dưỡng Hoa Kỳ 2012; 142: 2167-2174 Bài tiết I-ốt qua nước tiểu ít trong thời kỳ đầu mang thai có liên quan tới các thay đổi trong hoạt động chức năng điều hành ở trẻ em Nhóm tác giả: Nina van Mil, Henning Tiemeier, JacobaBongers-Schokking, AkhgarGhassabian, Albert Hofman, Herbert Hooijkaas, Vincent Jaddoe, Sabine deMuinck Keizer-Schrama, Eric Steegers, Theo Visser, Willy Visser, Alec Ross, Frank Verhulst, Yolanda de Rijke và R´egineSteegers-Theunissen Tóm tắt: Trong khi những tác động của tình trạng thiếu i-ốt trầm trọng trong khi mang thai đối với quá trình phát triển não bộ của thai nhi đã được chứng minh rõ ràng, thì ảnh hưởng của việc thiếu iốt từ nhẹ đến trung bình trong thời gian mang thai lại ít được biết đến. Trong nghiên cứu thuần tập dựa trên quần thể này, người ta nghiên cứu mối liên quan giữa nồng độ i-ốt qua nước tiểu (UIC) của người mẹ và hoạt động chức năng điều hành ở trẻ 4 tuổi. UIC được đo ở 1.156 phụ nữ mang thai và người ta đánh giá sự suy giảm hoạt động chức năng điều hành ở 692 đứa trẻ của họ. Những trẻ có mẹ có UIC thấp (thiếu hụt từ nhẹ đến trung bình) cho thấy có điểm về tỉ lệ bị vấn đề về ức chế và bộ nhớ làm việc cao hơn đáng kể. Các kết quả của nghiên cứu này chỉ ra rằng mức độ iốt thấp trong khi mang thai có liên quan đến suy giảm hoạt động chức năng điều hành ở trẻ 4 tuổi. Những triệu chứng cận lâm sàng ở độ tuổi nhỏ này cho thấy các em dễ có khả năng bị các rối loạn lâm sàng trong cuộc sống sau này. Source: http://jn.nutrition.org/content/142/12/2167

02/02/2016

Tác động của việc bổ sung i-ốt và tăng cường i-ốt trong bánh mì với nồng độ iốt trong nước tiểu phụ nữ mang thai
Tạp chí Dinh dưỡng 2013; 12: 32 Tác động của việc bổ sung i-ốt và tăng cường i-ốt ở bánh mì đối với nồng độ iốt trong nước tiểu trong một quần thể phụ nữ mang thai bị thiếu i-ốt nhẹ ở Nam Úc. Nhóm tác giả: Clifton VL, Hodyl NA, Fogarty PA, Torpy DJ, Roberts R, Nettelbeck T, Ma G, Hetzel B. Tóm tắt: I-ốt cần cho quá trình phát triển não bộ của thai nhi khỏe mạnh và việc thiếu iốt thậm chí nhẹ trong khi mang thai cũng có thể có ảnh hưởng tiêu cực đáng kể đối với toàn bộ quá trình phát triển thai nhi và chức năng nhận thức của trẻ trong tương lai. Để chống lại sự gia tăng tỷ lệ thiếu iốt ở Úc, chương trình tăng cường bắt buộc i-ốt ở bánh mì đã được đưa ra trong năm 2009. Trong khi việc này dường như có hiệu quả trong dân số nói chung, thì lại có những lo ngại rằng nó có thể không đủ cho phụ nữ mang thai để đạt được đủ lượng i-ốt (150μg/L) theo quy định của WHO. Mục đích của nghiên cứu này là nhằm quan sát ảnh hưởng của bánh mì đã được tăng cường muối i-ốt và việc sử dụng vitamin tổng hợp có chứa i-ốt. Phụ nữ mang thai bị thiếu iốt nhẹ (n=196) được chọn ở đầu thời kỳ mang thai và nước tiểu được thu thập tại tuần thứ 12, 18, 30, 36 của thai kỳ và 6 tháng sau khi sinh để thu được giá trị về nồng độ i-ốt qua nước tiểu (UIC). Viêc tăng cường i-ốt vào bánh mì làm tăng UIC trung vị từ 68μg/L lên đến 84μg/L, nhưng mức này vẫn còn trong phạm vi hơi thiếu. Trong suốt quá trình nghiên cứu, các UIC trung vị của những phụ nữ không uống bổ sung luôn duy trì ở mức thiếu nhẹ (<90μg/L). Ngược lại, UIC trung vị của những phụ nữ uống vitamin tổng hợp có chứa i-ốt tăng dần trong suốt thời kỳ mang thai, vì vậy khi đến tuần thứ 36 của thai kỳ, UIC trung vị nằm trong trong phạm vi đủ (150-249μg/L). Ở 36 tuần tuổi thai, có nhiều phụ nữ uống vitamin tổng hợp có chứa i-ốt đạt trạng thái đủ i-ốt (43%) hơn so với những người không uống các sản

02/02/2016

Bổ sung vitamin D ở phụ nữ mang thai và các chỉ số mang thai và sơ sinh
Mối liên hệ giữa nồng độ 25-hydroxyvitamin D ở huyết thanh của người mẹ và các chỉ số mang thai và sơ sinh: tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp của các nghiên cứu quan sát Nhóm tác giả: FaribaAghajafari, TharsiyaNagulesapillai, Paul Ronksley, Suzanne Tough, Maeve O’Beirne& Doreen Rabi Tóm tắt: Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy việc thiếu vitamin D có liên quan đến các chỉ số bất lợi cho thai kỳ và sơ sinh. Để phản ánh tầm quan trọng của những phát hiện này, người ta tiến hành làm một bản tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp để đánh giá ảnh hưởng của lượng 25-hydroxyvitamin D (25-OHD) đối với các chỉ số thai kỳ và các biến số sinh nở. Tổng số 31 nghiên cứu quan sát được đưa vào trong bản phân tích và sự thiếu hụt vitamin D được xác định khi lượng vitamin D <75nmol/L. Mười nghiên cứu ghi nhận về đái tháo đường thai kỳ bao gồm 687 trường hợp và 3425 đối chứng và các nghiên cứu này cho thấy việc thiếu hụt vitamin D có liên quan tới 49% nguy cơ gia tăng bị đái tháo đường thai kỳ. Chín nghiên cứu ghi nhận về tiền sản giật (350 trường hợp và 2841 đối chứng) và cho thấy nguy cơ tiền sản giật tăng 79% với trường hợp thiếu hụt vitamin D. Mười nghiên cứu (n=8788) quan sát các biến sinh nở và chứng minh việc thiếu hụt vitamin D có liên quan tới 85% gia tăng nguy cơ trẻ sinh nhẹ cân hơn so với tuổi thai. Ba nghiên cứu (672 trường hợp, 3790 đối chứng) đã chứng minh phụ nữ mang thai có lượng vitamin D thấp có nguy cơ gia tăng bị viêm âm đạo do vi khuẩn. Hai nghiên cứu (395 trường hợp, 1224 đối chứng) quan sát ca sinh mổ đã không tìm thấy bất kỳ liên quan nào với việc thiếu hụt vitamin D. Tóm lại, thiếu vitamin D (<75nmol/L) trong khi mang thai có liên quan tới việc tăng đáng kể nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường thai kỳ, tiền sản giật, trẻ sinh nhẹ cân hơn so với tuổi thai và viêm âm đạo do vi khuẩn. Những phát hiện này nhấn mạnh mối lo ngại rằng ngay cả khi phụ nữ mang thai có lượng vitamin

03/02/2016

Mối liên hệ giữa bổ sung axit folic của mẹ và nguy cơ mắc hội chứng tự kỷ ở trẻ
JAMA: Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Mỹ 2013; 309:570-577 Mối liên hệ giữa việc sử dụng các sản phẩm bổ sung axit folic của người mẹ và nguy cơ mắc các rối loạn phổ tự kỷ (hội chứng tự kỷ) ở trẻ Surén P, Roth C, Bresnahan M, Haugen M, Hornig M, Hirtz D, Lie KK, Lipkin WI, Magnus P, Reichborn-Kjennerud T, Schjølberg S, Davey Smith G, Øyen AS, Susser E, Stoltenberg C. Việc bổ sung axit folic trước khi sinh đã được công nhận làm giảm nguy cơ bị các khuyết tật ống thần kinh, nhưng việc liệu nó có giúp phòng chống các rối loạn về phát triển thần kinh thì vẫn chưa được chứng minh rõ. Các rối loạn phổ tự kỷ (ASDs) có khả năng bắt nguồn từ giai đoạn đầu của thai kỳ khi axit folic giữ vai trò then chốt nhất. Do đó, mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm kiểm tra mối liên hệ giữa việc bổ sung axit folic trước khi sinh và nguy cơ theo sau của ASDs (tự kỷ, hội chứng Asperger, các rối loạn phát triển lan tỏa - không đặc hiệu khác [PDD-NOS]) ở trẻ. Nghiên cứu dựa trên quần thể xuôi thời gian này bao gồm 85.176 trẻ em sinh trong các năm 2002 - 2008. Vào lúc kết thúc nghiên cứu (2012, tuổi trung bình là 6,4), trẻ có mẹ uống axit folic có một tỷ lệ mắc bệnh tự kỷ (0,10%, 64/61,042) thấp hơn đáng kể so với những trẻ có mẹ không bổ sung axit folic (0,21%, 50/24,134 ). Tỉ số nguy cơ đã được điều chỉnh cho thấy những trẻ có mẹ được bổ sung axit folic có 39% giảm nguy cơ mắc bệnh tự kỷ. Không thấy có mối liên quan nào với hội chứng Asperger và PDD-NOS, nhưng mức độ tin cậy của bằng chứng vẫn còn hạn chế. Nghiên cứu này chỉ ra rằng ngoài việc ngăn ngừa khuyết tật ống thần kinh, bổ sung axit folic quanh thời điểm thụ thai cũng có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tự kỷ ở trẻ. Xem thêm: Bổ sung axit folic đúng cách cho bà bầu Source: http://jama.jamanetwork.com/article.aspx?articleid=1570279

07/05/2016

Vitamin D – Vai trò, cơ chế, tác dụng và nghiên cứu lâm sàng
Vitamin D Điều hòa lượng canxi và phốt pho trong máu Cần cho hình thành và tái hấp thu xương Cần cho tổng hợp calbindin và osteocalcin Kết quả Cải thiện khối lượng xương ở trẻ em Liên quan tới khối lượng xương của thai nhi cao hơn ở phụ nữ mang thai. [1, 2] Thiếu hụt Vitamin D – một mối lo ngại toàn cầu Việt Nam: 30-50% (cao hơn ở thành phố) [3, 4] Australia: 43% (xét nghiệm về Vitamin D tăng gấp 10 lần so với 10 năm trước) Canada, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh, Thái Lan: 30-50% Các chuyên gia cho rằng chỉ ánh nắng mặt trời thôi thì chưa đủ để duy trì đủ lượng vitamin D đặc biệt trong thời kỳ mang thai Viện Y Khoa – EAR: 400IU; RDI (Mức khuyến nghị hàng ngày): 600IU trong thai kỳ. Các thụ thể vitamin D (VDRs) VDRs được tìm thấy trong hầu hết các mô, làm vitamin D trở thành một thành thần sống còn đối với sức khỏe chung Các yếu tố phiên mã được hoạt hóa bởi vitamin D (gốc kết hợp) Điều hòa phiên mã trên 2.000 gien Vitamin D gắn kết với VDRs cho các tác dụng đặc hiệu với từng mô: Vitamin D – Điều hòa miễn dịch Đối với Mẹ – Tiền sản giật Phiên mã gien có liên hệ với: Sự xâm lấn của nhau thai, làm tổ bình thường và tăng sinh mạch máu Tác dụng đến cấu thành mạch máu: Phản ứng viêm, cân bằng Th1 – Th2 & yếu tố tăng trưởng nội mô thành mạch (VEGF) Haugen và cộng sự 2009 Nghiên cứu dịch tễ học (n = 23.423) Bổ sung Vitamin D (400IU – 600IU/ngày) Giảm đáng kể nguy cơ bị tiền sản giật tới 27% Bodnar và cộng sự 2014 Tình trạng đủ vitamin D liên quan tới giảm 40% tiền sản giật trầm trọng. [5, 6] Vitamin D – Điều hòa miễn dịch Đối với em bé: Cải thiện chức năng bảo vệ và hỗ trợ hệ miễn dịch bẩm sinh Sản xuất các peptide chống vi khuẩn (bao gồm cathelicidin và defensin) Điều hòa miễn dịch tế bào T, phản ứng viêm, các cytokine Cần cho sự phát triển và điều hòa đáp ứng của hệ miễn dịch Liên quan với thiếu hụt Vitamin D: Bệnh tự miễn, bệnh lao, vẩy nến, eczema, bệnh Crohn, nhiễm khuẩn đường hô hấp, nhiễm trùng vết thương,

07/05/2016

Bổ sung omega-3 của người mẹ làm giảm chứng eczema trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ
Dị ứng là một bệnh phổ biến, đặc biệt là ở các nước phát triển như Australia. Ở thế hệ này, ngày càng có nhiều trẻ bị bệnh dị ứng và nó có vẻ như đang tăng lên. Việc tăng lên đột ngột này có lẽ phần nào có liên quan tới sự thay đổi về môi trường và cũng có thể có vai trò của dầu cá đối với việc mắc các bệnh dị ứng thời thơ ấu. Nhiều bệnh dị ứng như chứng viêm da dị ứng và dị ứng thức ăn xảy ra nhiều nhất ở độ tuổi lên 1. Nghiên cứu này được thực hiện ở Adelaide và bao gồm 706 trẻ sơ sinh có nguy cơ cao mắc các bệnh dị ứng vì có tiền sử gia đình rõ ràng. 368 bà mẹ được lựa chọn ngẫu nhiên để nhận 900mg omega-3 LCPUFA hàng ngày từ 21 tuần tuổi thai đến khi sinh. Nhóm đối chứng (n=338) nhận giả dược không có chứa một chút nào omega-3. Các trẻ sơ sinh được theo dõi ở độ tuổi lên 1 và các bệnh dị ứng liên quan đến IgE được ghi nhận. Các tác giả đã tìm thấy trẻ sơ sinh trong nhóm có mẹ được uống omega-3 ít bị bệnh chàm bội nhiễm (eczema do dị ứng) hơn so với những trẻ có mẹ nhận giả dược. Omega-3 làm giảm 36% nguy cơ này. Các kết quả từ nghiên cứu này cho thấy việc bổ sung omega-3 trong thai kỳ, thông qua cá hoặc các sản phẩm bổ sung dầu cá, có thể làm giảm nguy cơ trẻ mắc bệnh chàm bội nhiễm. Tài liệu tham khảo Palmer, D.J., et al., Effect of n-3 long chain polyunsaturated fatty acid supplementation in pregnancy on infants’ allergies in first year of life: randomised controlled trial. BMJ, 2012. 344: p. e184.

07/05/2016

Tác dụng của việc bổ sung dầu cá và axit folic trước khi sinh đối với khả năng nhận thức của trẻ ở độ tuổi 6,5
Trong nghiên cứu đối chứng ngẫu nhiên này, tác dụng dài hạn của việc bổ sung omega-3 và 5-methyltetrahydrofolate (5-MTHF) trong khi mang thai được nghiên cứu để xem liệu có ảnh hưởng nào đối với chức năng nhận thức của trẻ ở độ tuổi 6,5. Nghiên cứu này được tiến hành ở 3 trung tâm của châu Âu, ở đó phụ nữ được lựa chọn ngẫu nhiên vào một trong bốn nhóm can thiệp. Trong mỗi nhóm, họ được điều trị từ tuần thứ 20 của thai kỳ cho đến khi sinh: Nhóm 1: 500mg DHA + 150mg EPA Nhóm 2: 400µg 5-MTHF (folic acid) Nhóm 3: 500mg DHA+ 150mg EPA + 400µg 5-MTHF Nhóm 4: Giả dược Lượng DHA trong hồng cầu của người mẹ ngay khi sinh cao hơn có liên quan tới điểm tổng hợp về xử lý thần kinh ở trẻ sơ sinh cao hơn. Mặc dù không có tác dụng đáng kể của việc bổ sung đối với chức năng nhận thức của trẻ, nhưng tình trạng DHA của người mẹ cũng có liên quan đáng kể tới sự phát triển nhận thức sau này ở trẻ. Theo Procarevn [tds_note]Thuốc PM Procare cung cấp 130mg DHA và 30mg EPA, 400mcg Axit Folic, PM Procare diamond cung cấp 216mg DHA, 45mg EPA, 500mcg acid folic cùng nhiều dưỡng chất thiết yếu khác để cùng thức ăn hàng ngày đáp ứng nhu cầu dưỡng chất tăng lên của cơ thể khi mang thai và cho con bú. Cùng với chế độ ăn, mẹ chỉ cần bổ sung mỗi ngày 01 viên Procare là đủ.[/tds_note]

07/05/2016

Omega-3 của mẹ có thể làm giảm hen ở thời thơ ấu của trẻ
Một nghiên cứu mới cho thấy việc bổ sung omega-3 cho người mẹ trong khi mang thai và cho con bú có thể làm giảm nguy cơ trẻ sơ sinh bị mắc bệnh hen. Chứng cớ gần đây chứng minh cơ sở lý thuyết là acid béo omega-3 có thể làm giảm mắc bệnh hen khi bổ sung cho phụ nữ trong khi mang thai và cho con bú. Axit béo Omega-3 là axit béo đa không bão hòa rất quan trọng đối với não, hệ tim mạch, và hệ miễn dịch. Các nghiên cứu chỉ ra rằng axit béo omega-3 hoạt động như là một chất chống viêm do làm giảm các chất trung gian gây viêm trong máu và các mô. Phản ứng viêm gây ra nhiều bệnh ở thời thơ ấu như là hen, phản ứng dị ứng và dị ứng. Với tình trạng dị ứng tăng lên ở trẻ em và mối đe dọa của sự mẫn cảm quá mức của trẻ với thức ăn và sữa bò non, thì điều quan trọng là phải cảnh giác với hệ miễn dịch của trẻ. Một cách ngẫu nhiên, omega-3 cho thấy có tác dụng tích cực trong việc điều chỉnh hệ miễn dịch bằng cách tương tác với tế bào T để làm giảm phản ứng dị ứng. Trong thế giới hiện đại khi mọi nỗ lực để bảo vệ trẻ khỏi bệnh tật chủ yếu được thực hiện bởi sự tẩy trùng và kiểm soát nhiễm khuẩn, một vấn đề mới đang nổi lên. Có tồn tại một sự cân bằng giữa nhiễm khuẩn sớm thời thơ ấu như là ho và cảm cúm thông thường và đáp ứng dị ứng ở trẻ. Khi trẻ được giữ và bảo vệ tránh tiếp xúc với nhiễm khuẩn từ những đứa trẻ khác hoặc từ môi trường sống, thì đáp ứng dị ứng của cơ thể trở nên mạnh hơn [1]. Tế bào T là tế bào của hệ miễn dịch đáp ứng trực tiếp với môi trường và điều chỉnh loại hình đáp ứng dị ứng nào sẽ được khởi phát. Dị ứng là đáp ứng viêm không thích hợp khởi nguồn bởi tế bào T, có thể dẫn đến các bệnh như là hen. Đây chính là chỗ mà Omega-3 có thể trợ giúp. Một nghiên cứu mới đây cho thấy việc bổ sung dầu cá cho phụ nữ có thai

07/05/2016

Axit folic không những làm giảm tỉ lệ mắc khuyết tật ống thần kinh, mà còn làm giảm những dị tật tim mạch bẩm sinh
Liều 400 mcg axit folic/ngày cũng có thể làm giảm 71% số trường hợp bị khuyết tật ống thần kinh (NTD) và cũng giúp ngăn ngừa sự xuất hiện của chứng sứt môi. Mặc dù axit folic tự nó cũng có thể giúp giảm tỉ lệ mắc khuyết tật ống thần kinh, nhưng sử dụng đa vitamin có chứa axit folic và vitamin nhóm B khác có hiệu quả hơn nhiều. Sản phẩm bổ sung đa vitamin (0,4µg B12, 2,6mg B6, 1.8mg B2 và 0,8mg axit folic), cho thấy giúp ngăn ngừa thành công các khuyết tật ống thần kinh (không có ca nào được báo cáo) và cho thấy có sự giảm đáng kể trong tổng số các khuyết tật bẩm sinh. Trong số các khuyết tật bẩm sinh này thì khuyết tật vách tâm thất giảm được khoảng 74%. Các khuyết tật tim mạch bẩm sinh (CCA) là một trong những khuyết tật bẩm sinh chính phổ biến nhất và chiếm gần một nửa số ca tử vong sơ sinh liên quan đến các khuyết tật bẩm sinh. Khoảng 7 – 8 ca sinh trong mỗi 1000 trẻ sơ sinh sống bị ảnh hưởng bởi các khuyết tật tim mạch bẩm sinh (CCA). Ở Quebec, theo thống kê, việc tăng cường axit folic của ngũ cốc dẫn đến giảm đáng kể 6% các trường hợp khuyết tật tim mạch bẩm sinh nghiêm trọng. Khi các protein từ thịt, cá hoặc thực vật được tiêu hoá thành các axit amino, methionine (một axit amino) được biến đổi thành homocysteine độc, thường được trung hoà ngay lập tức. Nó cần vitamin B6 để được chuyển hoá. Quá trình tái metyl hoá của homocysteine thành methione cần vitamin B12 và folate (5-methyl-tetrahydrofolate) như một nguồn cung cấp metyl. Vì vậy tình trạng thiếu hụt folate cũng như B6 có thể làm cho lượng homocysteine tăng lên và làm tăng nguy cơ bị các khuyết tật bẩm sinh như NTD và CCA. Folate chỉ có thể thu được qua chế độ ăn hoặc các sản phẩm bổ sung vì cơ thể không tự sản sinh ra folate. Liều 5mg axit folic một ngày cho thấy có ích cho các trường hợp có khả năng mang thai , cách xa so với mức tối đa cơ thể cho phép dung nạp trong một ngày 1mg axit folic. Nghiên cứu này cho thấy axit folic có

07/05/2016

Bổ sung canxi trong khi mang thai có thể làm giảm chứng cao huyết áp, tử vong sơ sinh và sinh non
Cao huyết áp trong thai kỳ là một trong những nguyên nhân hàng đầu của tình trạng bệnh tật và tử vong ở người mẹ. Rất nhiều nghiên cứu đã chứng minh mối quan hệ nghịch đảo giữa việc bổ sung canxi và việc mắc bệnh cao huyết áp do thai kỳ. Số liệu được lấy ra từ 10 thử nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên. Liều dùng canxi được đưa ra trong khoảng từ 0,5g/ngày đến 2g/ngày. Việc bổ sung bắt đầu từ tuần thứ 32 của thai kỳ là muộn nhất. Phụ nữ trong các nghiên cứu này (n=11405) chủ yếu có nguồn gốc từ châu Á, Nam Mỹ và châu Phi. Việc bổ sung canxi trong khi mang thai dẫn đến việc giảm đáng kể 45% chứng cao huyết áp do thai kỳ, giảm 59% nguy cơ mắc chứng sản giật, giảm tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh và làm giảm nguy cơ sinh non. Vì vậy việc bổ sung canxi trong khi mang thai rất có lợi cho cả mẹ và em bé vì nó có thể giúp giảm chứng cao huyết áp, chứng sản giật, tử vong sơ sinh và sinh non Tài liệu tham khảo: Imdad, A., A. Jabeen, and Z.A. Bhutta, Role of calcium supplementation during pregnancy in reducing risk of developing gestational hypertensive disorders: a meta-analysis of studies from developing countries. BMC Public Health, 2011. 11 Suppl 3: p. S18.

07/05/2016

Thiếu hụt axit folic có thể dẫn tới cân nặng khi sinh thấp và nhiều hậu quả bất lợi
Axit folic được biết đến nhiều trong việc ngăn ngừa các khuyết tật ống thần kinh, nhưng nó còn giữ vai trò quan trọng đối với cân nặng khi sinh, đây là một chỉ số về thể trạng trẻ sơ sinh và là chỉ số dự báo về các bệnh mãn tính khi trưởng thành như huyết áp cao vào giai đoạn sau của cuộc đời. Axit folic cần để sản xuất đủ hồng cầu, để vận chuyển ôxy khắp cơ thể. Thiếu axit folic có thể dẫn tới chứng thiếu máu, làm cho người bị thiếu năng lượng và mệt mỏi. Có bằng chứng cho thấy vai trò của axit folic trong vấn đề này. Một vài nghiên cứu cho thấy axit folic có thể cải thiện chức năng nội mô và vì vậy có thể liên quan đến chứng tiền sản giật, sảy thai và hạn chế sự tăng trưởng ở tử cung. Nghiên cứu này được đăng trên Tạp chí của Anh về Sản Phụ khoa (2012) đã phân tích nồng độ homocysteine, folate và vitamin B12 trong huyết thanh trên 5805 phụ nữ mang thai. Họ thấy rằng nồng độ folate thấp có liên quan tới cân nặng nhau thai và cân nặng khi sinh thấp hơn, làm tăng nguy cơ trẻ sinh ra nhẹ cân hơn so với tuổi thai, sinh sớm và mắc chứng tiền sản giật so với những phụ nữ những phụ nữ có nồng độ folate cao hơn. Vì vậy bổ sung axit folic nên bắt đầu từ giai đoạn đầu của thai kỳ nhằm giúp giảm thiểu nguy cơ gặp các hậu quả bất lợi cho thai nhi và giúp cho sự tăng trưởng của nhau thai. Điều này nhấn mạnh rằng chế độ ăn giàu axit folic (như các loại ngũ cốc đã được tăng cường và các rau lá xanh) là rất quan trọng trong giai đoạn then chốt của quá trình phát triển. Tài liệu tham khảo: Bergen, N.E., et al., Homocysteine and folate concentrations in early pregnancy and the risk of adverse pregnancy outcomes: the Generation R Study. BJOG, 2012. 119(6): p. 739-51.

07/05/2016

Bổ sung sắt và axit folic trước khi sinh giúp cải thiện tỉ lệ sống sót của trẻ
Tỉ lệ tử vong thời thơ ấu là cao ở các nước đang phát triển khác nhau. Năm 2010, có xấp xỉ 7,7 triệu trẻ chết trên toàn thế giới; gần một nửa số đó chết trước khi được 27 ngày tuổi. Cũng lớn tương tự như những con số này, so với năm 1990, lúc đó thực sự đã giảm 35% tỉ lệ tử vong của trẻ ( Nhiều yếu tố góp phần vào việc gây tử vong trong thời thơ ấu, và một số yếu tố là chế độ dinh dưỡng của người mẹ. Một vài nghiên cứu cho thấy lượng haemoglobin thấp trong thời gian đầu mang thai dẫn tới cân nặng khi sinh thấp, sinh non và sau đó là tử vong. Vì vậy bổ sung thêm sắt và axit folic được thử nghiệm để xem liệu chúng có thể giảm được tỉ lệ tử vong sơ sinh không. Nghiên cứu này được đăng trên Tạp chí của Mỹ về Dinh dưỡng lâm sàng (2012) nghiên cứu hiệu quả của việc bổ sung sắt và axit folic trong khi mang thai và ảnh hưởng của nó đối với tỉ lệ tử vong thời thơ ấu. Nghiên cứu này được tiến hành ở Indonesia và là một nghiên cứu thuần tập rất lớn, bao gồm 52,917 trẻ sơ sinh sinh một. Các tác giả đã thấy rằng phụ nữ uống các sản phẩm bổ sung sắt và axit folic trong khi thai kỳ của họ giúp làm giảm 34% tỉ lệ tử vong thời thơ ấu của con họ. Cơ chế mà các sản phẩm bổ sung này cải thiện tỉ lệ sống sót thời thơ ấu vẫn chưa được biết, vì có rất nhiều yếu tố liên quan, nhưng các kết quả cho thấy ở đây rất đáng kể. Các phát hiện này đưa ra giả thiết dùng sản phẩm bổ sung có chứa sắt axit folic trong khi mang thai có thể làm giảm nguy cơ tử vong thời thơ ấu. Tài liệu tham khảo: Dibley, M.J., et al., Iron and folic acid supplements in pregnancy improve child survival in Indonesia. Am J Clin Nutr, 2012. 95(1): p. 220-30.

07/05/2016

Dùng omega-3 trước khi sinh có thể làm tăng thời gian mang thai
Sinh non, được định nghĩa là sinh trước 37 tuần, là phổ biến và chiếm tỉ lệ là 1/12 trường hợp mang thai. Trong số các bệnh, trẻ sinh non có nguy cơ bị chứng liệt não, khó học tập, các bệnh hô hấp cao hơn. Sinh non góp phần gây ra hơn một phần tư các trường hợp tử vong sơ sinh. Hơn thế nữa, hơn một phần tư trường hợp sinh non dẫn tới tử vong trước 1 tháng tuổi. Các axit béo đa không bão hoà chuỗi dài (LCPUFA) được truyền qua nhau thai từ mẹ tới thai nhi. Tuy nhiên, trong quá trình mang thai lượng DHA (một loại LcPUFA) của người mẹ giảm đi. Thai nhi và nhau thai không tổng hợp được nhiều LcPUFA vì vậy việc bổ sung LcPUFA của người mẹ là rất quan trọng. Khuyến nghị từ Uỷ ban Châu Âu là phụ nữ mang thai nên uống tối thiểu 200mg DHA (một loại omega-3) một ngày. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh không có tác hại khi dung liều cao LcPUFA (2,7g), thực tế, bổ sung DHA làm tăng thời gian mang thai (lên 2 ngày) và vì vậy tăng cân nặng khi sinh lên thêm 50g. Tình trạng cân nặng khi sinh thấp làm cho đứa trẻ có khả năng bị các bệnh mãn tính khi trưởng thành trong cuộc đời, như huyết áp cao làm tăng nguy cơ đau tim, là nguyên nhân số một gây tử vong trên thế giới. Nghiên cứu hệ thống này được đăng trên Tạp chí của Anh về Dinh dưỡng (2012) chứng minh rằng omega-3 có thể giảm nguy cơ sinh non bằng cách tăng thời gian mang thai; một phát hiện quan trọng có ý nghĩa lớn đối với hàng triệu ca sinh non và các biến chứng hậu quả của việc sinh non khắp thế giới. Nghiên cứu này nêu bật tầm quan trọng của omega-3 trong thời gian mang thai và khuyến nghị nên thu nhận đủ lượng omega-3 bằng cách ăn cá có dầu vài lần một tuần (ví dụ như cá hồi, cá ngừ, cá trích) hoặc bằng cách bổ sung dầu cá. Tài liệu tham khảo Larque, E., et al., Omega 3 fatty acids, gestation and pregnancy outcomes. Br J Nutr, 2012. 107 Suppl 2: p. S77-84. Xem thêm: Omega 3 có tác dụng gì Sự thật về tác dụng

07/05/2016

Bổ sung axit folic quanh giai đoạn thụ thai giúp làm giảm nguy cơ chết non
Trong khi mang thai, phụ nữ cần nhiều các chất dinh dưỡng đa lượng và vi lượng hơn, vì dinh dưỡng không đủ có thể dẫn đến nhiều bất lợi đối với trẻ sơ sinh, và thậm chí thai chết non. Bài này xem xét các can thiệp dinh dưỡng bao gồm bổ sung axit folic quanh giai đoạn thụ thai, bổ sung năng lượng protein cân bằng và bổ sung các chất dinh dưỡng vi lượng trong khi mang thai. Trong 18 nghiên cứu được tiến hành bằng cách bổ sung axit folic quanh giai đoạn thụ thai, tỉ lệ mới mắc các khuyết tật ống thần kinh giảm đi 41% (RR 0,59, CF 0,52-0,68). Số liệu lấy từ các nghiên cứu loại thấp hơn cho thấy việc bổ sung năng lượng protein cân bằng làm giảm 45% nguy cơ chết non (RR 0,55, 95% CI 0,31-0,97). 13 nghiên cứu xem xét vai trò của việc bổ sung nhiều chất dinh dưỡng vi lượng trong thai kỳ nhưng lại cho thấy sự giảm không đáng kể đối với tỉ lệ chết non hoặc tử vong chu sinh. Tài liệu tham khảo 1. Imdad, A., M.Y. Yakoob, and Z.A. Bhutta, The effect of folic acid, protein energy and multiple micronutrient supplements in pregnancy on stillbirths. BMC Public Health, 2011. 11 Suppl 3: p. S4.

01/07/2016

Omega-3 giúp tăng miễn dịch và phòng ngừa bệnh dị ứng ở trẻ sơ sinh
Các bệnh dị ứng ngày càng gia tăng ở những nước phát triển gây lo ngại cho các nhà khoa học. Úc là một trong những nước có tỷ lệ bệnh dị ứng cao nhất trên thế giới, với hơn 40% trẻ ở độ tuổi đi học có biểu hiện nhạy cảm với bệnh dị ứng. Những trẻ em này thường bị các bệnh lý dị ứng như hen, eczema, dị ứng thức ăn, viêm mũi dị ứng. Điều thú vị là nếu phụ nữ sử dụng Omega 3 khi mang thai có thể giúp tăng miễn dịch và phòng ngừa bệnh dị ứng ở trẻ sơ sinh như viêm mũi dị ứng, bệnh viêm dạ cơ địa, eczema. Bệnh dị ứng ở trẻ em có thể giảm bớt nhờ việc sử dụng đầy đủ Omega-3 từ khi mang thai Tỷ lệ hen phế quản tại Úc thuộc vào hàng cao nhất trên thế giới với khoảng 20% trẻ em. Mặc dù không tăng về mức độ nặng, tỷ lệ dị ứng thức ăn và eczema vẫn tiếp tục tăng về số lượng ở mức đáng báo động. “Đại dịch dị ứng” này chủ yếu gây ra bởi sự biến đổi của môi trường, mặc dù nguyên nhân chính xác tới nay vẫn chưa rõ ràng. Sự thay đổi trong chế độ ăn hiện đại với tỷ lệ acid béo chưa no Omega-3 (DHA, EPA) ngày càng ít đi trong bữa ăn có thể đóng góp vào nguyên nhân làm gia tăng tình trạng các bệnh dị ứng. Chính vì vậy, các nhà khoa học đã và đang tích cự tìm mối liên hệ giữa DHA, EPA với các bệnh lý dị ứng. Các nghiên cứu đã tiến hành Một số nghiên cứu quan sát đã chỉ ra khả năng phòng bệnh dị ứng của việc ăn cá hoặc bổ sung trực tiếp Omega-3 chuỗi dài khi mang thai và thời thơ ấu. Cũng giống như các tác dụng khác của Omega-3 chuỗi dài, tác dụng bảo vệ sẽ tốt nhất khi được bổ sung vào thời điểm trẻ còn nhỏ, lúc mà hệ miễn dịch đang phát triển, hoàn thiện. Một số cơ chế tạo ra tác dụng bảo vệ của Omega-3 chuỗi dài như sau: Tác động lên chuyển hóa eicosanoid có thể ảnh hưởng tới chức năng miễn dịch:DHA/EPA và Omega-6 cạnh tranh trên một con đường chuyển hóa để tạo các

01/07/2016

Omega-3 chuỗi dài với sức khỏe của phụ nữ mang thai và cho con bú
Sử dụng và tích trữ Omega-3 chuỗi dài (DHA, EPA) khi mang thai sẽ giúp tăng cường khả năng miễn dịch, trí tuệ, thị giác ở trẻ sơ sinh, đồng thời giúp ngăn ngừa và hỗ trợ điều trị các bệnh lý thường gặp ở phụ nữ mang thai như đái tháo đường thai kỳ, tiền sản giật, trầm cảm sau sinh... Các nhà khoa học ngày càng khám phá ra nhiều lợi ích của Omega-3 chuỗi dài với sức khỏe phụ nữ mang thai và cho con bú. Dầu cá đại dương giúp ngăn ngừa tiền sản giật, sinh non, sinh con nhẹ cân và thai nhỏ EPA và DHA có tác dụng chống viêm và tác dụng trên hệ tim mạch. Trong khi đó, chúng ta đã biết tiền sản giật và tăng huyết áp thai kỳ liên quan mật thiết tới co mạch và tổn thương nội mô, do đó các loại acid béo từ dầu cá đại dương này cũng có thể phòng ngừa các bệnh lý trên. Dầu cá đại dương có thể làm chậm quá trình chuyển dạ và sự chín muồi của cổ tử cung bằng cách ức chế sản xuất Prostaglandins F2a và E2. Sự hợp lý về mặt sinh hóa này cũng được thấy trong các nghiên cứu quan sát chỉ ra mối tương quan giữa việc tiêu thụ nhiều cá với gia tăng thời gian mang thai, tăng cân nặng ở trẻ sơ sinh và giảm tần suất tiền sản giật (Olsen và cộng sự 1986, Olsen và Joensen 1985). Từ đó dẫn tới một số thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên nhằm đánh giá mối liên hệ nhân quả giữa việc sử dụng dầu cá trong thai kỳ và cải thiện kết quả quá trình mang thai. Dầu cá đại dương giúp ngăn ngừa tiền sản giật, sinh non, sinh con nhẹ cân và thai nhỏ so với tuổi Có hơn 3 đánh giá hệ thống gần đây tổng hợp lại những kết quả từ các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng như của Makrides và cộng sự 2006, Horvath và cộng sự 2007, Szajewska và cộng sự 2006. Các phân tích meta chỉ ra những kết quả ổn định mặc dù có nhiều tiêu chí đánh giá khác nhau. Tóm lại, việc sử dụng dầu cá đại dương trong suốt thai kỳ giúp kéo dài thời gian mang thai so với nhóm không

13/08/2016

Bổ sung acid folic trước khi mang thai để dự phòng dị tật ống thần kinh
Dị tật ống thần kinh là bất thường nghiêm trọng do ống thần kinh không đóng kín phía trên hoặc phía dưới trong tuần thứ 3 tới tuần thứ 4 kể từ khi thụ thai ( 26 đến 28 ngày sau khi thụ thai ) Thiếu acid folic trong thời gian đầu mang thai là nguyên nhân quan trọng dẫn tới dị tật ống thần kinh Dị tật ống thần kinh khá phổ biến trong cộng đồng trên thế giới, đặc biệt là ở những quốc gia có thu nhập thấp hoặc trung bình. Mỗi năm có hơn 4500 phụ nữ có thai ở châu âu bị dị tật ống thần kinh. Ở Anh và Ai Len, tỉ lệ dị tật ống thần kinh giảm từ 4,5/1000 ca sinh vào những năm 1980 xuống còn 1,5/1000 vào những năm 1990. Ở Mỹ, tỉ lệ mới mắc là 1,4 - 1,6/1000 ca sinh sống và 0,8/1000 ca sinh sinh tại Canada. Ở các nước Mỹ la tinh, tỉ lệ hiện mắc là 5/ 1000 ca ở vùng đông bác, và ở phía nam của Braxin trong khi ở vùng Đông Nam tỉ lệ hiện mắc khoảng 1/1000. Ở Mexico tỉ lệ hiện mắc là 1/1000 ca sinh. Các bằng chứng hỗ trợ cho giả thuyết về mối quan hệ giữa sự thiếu hụt acid folic và dị tật ống thần kinh bao gồm: một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên về dự phòng acid folic trong những trường hợp có hoặc không có tiền sử bị dị tật bẩm sinh cho thấy bổ sung acid folic làm giảm tỉ lệ dị tật ống thần kinh tới 72%; những thuốc kháng acid folic... làm tăng nguy cơ bị dị tật ống thần kinh; nồng độ folat trong hồng cầu của những phụ nữ sinh con bị dị tật ống thần kinh thấp hơn những phụ nữ sinh con bình thường. Vì thế, bổ sung acid folic mang đến lợi ích rất lớn, đặc biệt ở những quốc gia có nguồn tài nguyên hạn chế bởi một số lý do nhất định. Đầu tiên, tỉ lệ bị dị tật ống thần kinh ở các quốc gia có thu nhập thấp cao hơn ở những nước công nghiệp. Thứ hai, nguồn cung cấp acid folic sẵn có và giá cả phải chăng. Việc bổ sung sắt trong quá trình mang thai được phổ biến tại các

23/09/2016

Bổ sung axit folic cho bà bầu: Cần bổ sung ngay từ trước khi mang thai và trong suốt thai kỳ
Axit folic (vitamin B9) được khuyến cáo sử dụng cho phụ nữ có thai để phòng ngừa dị tật ống thần kinh ở thai nhi. Nhưng bạn có biết rằng nếu bạn bổ sung axit folic quá muộn thì con bạn vẫn có nguy cơ bị dị tật ống thần kinh?  Tại sao cần bổ sung axit folic cho bà bầu ngay từ trước khi mang thai? Nếu bạn đang mang thai hoặc dự định có thai, bổ sung đủ axit folic là vô cùng quan trọng và cần thiết. Axit folic giúp ngăn ngừa khuyết tật ống thần kinh – một dị tật bẩm sinh nghiêm trọng của tủy sống (chẳng hạn nứt đốt sống) và não (thiếu não, thai vô sọ). Dị tật ống thần kinh ảnh hưởng nặng nề đến hơn 300.000 trẻ em mỗi năm Ống thần kinh được hình thành ngay trong giai đoạn đầu phát triển của thai nhi, sau đó sẽ phát triển thành não và cột sống. Khi mới hình thành, ống thần kinh hở, và nó bắt đầu đóng kín lại từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 28 của thai kỳ. Các khuyết tật ống thần kinh sẽ xảy ra nếu ống thần kinh không được đóng kín hoàn toàn. Như vậy bổ sung axit folic chỉ giúp dự phòng khuyết tật ống thần kinh khi bạn bổ sung ngay từ trước tháng đầu tiên của thai kì. Việc bổ sung sau đó có ý nghĩa dự phòng thiếu máu và góp phần giảm các nguy cơ tiền sản giật, cao huyết áp cho mẹ. Nhiều phụ nữ không phát hiện ra mình đã mang thai ở tháng đầu tiên, vì vậy hãy bổ sung axit folic ngay từ khi bạn bắt đầu có ý định mang thai. Xem thêm: Tầm quan trọng của bổ sung acid folic cho bà bầu Bà bầu cần bao nhiêu axit folic mỗi ngày? Trên thực tế, rất nhiều phụ nữ mang thai không có kế hoạch trước, vì vậy các tổ chức Y tế hàng đầu thế giới như Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), Hiệp hội phụ sản Hoa Kì (ACOG) và các chuyên gia đều khuyến cáo tất cả phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và đang mang thai nên bổ sung 400mcg axit folic mỗi ngày. Các báo cáo cho thấy phụ nữ bổ sung 400mcg axit folic hàng ngày, bắt đầu

08/10/2016

Tác dụng của việc bổ sung dầu cá và axit folic trước khi sinh đối với khả năng phát triển nhận thức của trẻ ở độ tuổi 6,5  
Trong bối cảnh còn nhiều tranh cãi về vai trò của axit béo Omega-3 và axit folic đối với sự phát triển hệ thần kinh của thai nhi, nghiên cứu của C. Campoy và các cộng sự được thực hiện và công bố trên Tạp chí Dinh dưỡng lâm sàng Hoa kỳ 2011 đã củng cố thêm lập trường cần bổ sung axit folic và omega-3 khi mang thai. Vai trò của DHA và axit folic với hệ thần kinh Mục đích của nghiên cứu: Đánh giá tác dụng dài hạn của việc bổ sung omega-3 và 5-methyltetrahydrofolate (5-MTHF) trong khi mang thai đối với chức năng nhận thức của trẻ ở độ tuổi 6,5. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu này được tiến hành ở 3 trung tâm của châu Âu, ở đó phụ nữ mang thai khỏe mạnh được lựa chọn ngẫu nhiên vào một trong bốn nhóm can thiệp. Từ tuần thứ 20 của thai kỳ đến khi sinh, mỗi nhóm được bổ sung: Nhóm 1: 500mg DHA + 150mg EPA Nhóm 2: 400µg 5-MTHF (folic acid) Nhóm 3: 500mg DHA+ 150mg EPA + 400µg 5-MTHF Nhóm 4: Giả dược Phương pháp đánh giá: Trẻ sơ sinh nhận được 0,5% DHA và 0,4% axit arachidonic (AA) nếu được sinh ra từ bà mẹ có được bổ sung dầu cá và axit folic. Nhóm có mẹ không bổ sung thì không nhận có DHA và AA khi sinh ra cho đến khi được 6 tháng tuổi. Axit béo omega-3 và folate được xác định trong máu của bà mẹ ở tuần thứ 20 và 30 của thai kỳ. Khi sinh, lượng axit béo và folate được xác định trong nhau thai và cuống rốn. Chức năng nhận thức của trẻ được đánh giá khi trẻ ở độ tuổi 6,5 và đánh giá bằng phương pháp trắc nghiệm khả năng trí tuệ trẻ em của Kaufman (K-ABC). Kết quả: Có sự khác biệt đáng kể điểm K-ABC giữa các nhóm can thiệp. Lượng DHA trong hồng cầu của người mẹ ngay khi sinh cao hơn có liên quan tới điểm tổng hợp về khả năng xử lý thần kinh ở trẻ sơ sinh cao hơn. Việc bổ sung DHA của người mẹ khi mang thai cũng có liên quan đáng kể tới sự phát triển nhận thức sau này ở trẻ. Hiệp hội Dinh dưỡng Hoa Kỳ Nguồn: http://ajcn.nutrition.org/ Xem thêm: Bí quyết giúp con thông minh từ trong bụng mẹ
GIAI ĐOẠN
Tư vấn chuyên gia
Vui lòng để lại thông tin cần tư vấn tại đây để được chuyên gia giải đáp trong thời gian sớm nhất
ĐĂNG KÝ MUA HÀNG
PM Procare
-
+
PM Procare Diamond
-
+
Canxi Magcaldi
-
+
Giá tiền

0

VNĐ

Add Your Heading Text Here

Đơn hàng đã được đặt thành công ! Cám ơn quý khách đã tin dùng sản phẩm của chúng tôi.